Home UserCP Memberlist Register Calendar FAQ
Home

Trở lại   Chợ thông tin giao dịch Vàng Việt Nam > QUẢNG CÁO RAO VẶT > Rao vặt khác
Tên tài khoản
Mật khẩu
Đăng ký Hỏi đáp Danh sách thành viên Lịch Bài gửi hôm nay

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 24-07-2014, 03:20 PM
csvnam csvnam đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2013
Bài gửi: 3.059
Mặc định Bất động sản khách sạn Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Với thị trường khách sạn cửa lò và du l?ch ngh? dý?ng ở Việt Nam , thị trường này phụ thuộc vào hai nhân tố chính: Thứ nhất , lượng du khách đến đất nước này , tớ lấy nếu như một nơi chốn lôi cuốn khá Đông khách khứa du lịch tại Việt Nam là đà Nẵng; Thứ hai , đề nghị của du khách xét về chất lượng khu BĐS nghỉ dưỡng và BĐS khách sạn. Để đáp ứng đặng những đề nghị này , rõ ràng Việt Nam hẵng còn trong suốt quá trình phát triển và nâng cao chất lượng.
Ông đánh giá thế nào về nguồn cung BĐS nghỉ dưỡng và khách sạn bây giờ tại Việt Nam?
Về BĐS nghỉ dưỡng , cũng chi như các thị trường khác , thị trường khách sạn cửa lò nghỉ dưỡng tại Việt Nam cũng phát triển hơn theo thời kì. Xét về nguồn cung tại Việt Nam , khu du lịch nghỉ dưỡng , khách sạn cao cấp đoạt một số lượng to , sau đó là 3 sao và 4 sao. Tuy nhiên , trong suốt thời kì đến , Đông khả năng loại hình nghỉ dưỡng , khách sạn 3 sao sẽ đặng xây dựng Đông hơn. Xét trên giác độ chuye , thì số lượng khu du lịch nghỉ dưỡng và khách sạn tại hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh Vẫn ít hơn rất nhiều so với các thành phố khác tại luỵ Á như Jakarta , Kualar Lumpua , Singapore , … Nói chộp lại , trong suốt thời kì đến , dự định số lượng BĐS nghỉ dưỡng tại Việt Nam sẽ có xu hướng gia tăng so với bình thường Đông hơn , nhưng loại hình phát triển dẫn đầu sẽ là 3 sao – thay vì hạng sang 5 sao như hiện tại.
Về khách sạn , cụ thể như nguồn cung tại TP. Hồ Chí Minh , tổng số buồng khách sạn của cả thầy hạng 3 sao , 4 sao và 5 sao đạt 13.000 buồng , trong lúc đó tại Bangkok , con số này là 56.000 phòng. Các thành phố du lịch còn phát triển tại Việt Nam như Đà Lạt , Đà Nẵng thường xuyên một số thành phố ven biển vốn liếng lôi cuốn dãy ngàn lượt khách khứa du lịch và số lượng khách khứa tăng dần lên theo từng năm. Đồng thời với lượng khách khứa ngày càng Thêm lên này , hạ tầng cơ sở , hệ thống giao thông và BĐS nghỉ dưỡng , khách sạn cũng phải ngày càng nâng cao chất lượng , đáp ứng nhu cầu của đa dạng Đông xô khách.

Xét về tâm lý khách khứa du lịch , họ thường xuyên kiếm những trải nghiệm mới. Một gia đình thường xuyên về du lịch thì dãy mỗi câu có bốn sẽ kiếm cho tớ những khu xô lịch/nghỉ dưỡng mới. Tôi lấy nếu Thái Lan là một nơi chốn quá quen thuộc , Singapore thì cứ sau 2 , 3 mỗi câu có bốn lại có những nơi chốn đối xử , vui chơi mới nên khách khứa muốn con quay lại , Jakarta thì quá đông đúc còn Kualar Lumpua thì giao thông bất tiện , nếu lựa một nơi chốn theo dạng du lịch “du lịch về với thiên nhiên” thì tớ sẽ lựa Việt Nam bởi vì phong cảnh tự nhiên đẹp. Tuy nhiên , Việt Nam cần phải cải thiện phòng ốc , hạ tầng cơ sở , sáng tạo Đông hoạt động du lịch cho du khách , nâng cao chất lượng hoạt động quản lý du lịch cũng như khả năng tiếp xúc với nhau Anh ngữ của người bản xứ nữa.
Trên góc ngó của tớ , ông đánh giá thế nào về tiềm năng du lịch của Đà Nẵng so với các nơi chốn du lịch biển khác như Phuket thường xuyên Bali?
Tôi nghĩ mỗi nơi chốn có một lợi thế riêng , phần lớn các khu nghỉ dưỡng tại Đà Nẵng chỉ tập kết khai thác loại hình du lịch biển là chính yếu trong lúc tại Bali lại có đầy đủ biển – núi – rừng. Vì đào lộn hột này mà du khách chỉ có khả năng ở lại Đà Nẵng từ thầy đến bốn tháng , trong lúc họ hoàn toàn có khả năng lưu lại Phuket thường xuyên Bali bảy tháng , thậm chí hai mươi ngày. Một điểm quyến rũ nữa tại Bali là khách khứa du lịch nước ngoài đặng kể mua và sở hữu gia cư tại ốc đảo này. Bali tận dụng mọi rợ ưu thế đặt tiếp thị hình ảnh của một ốc đảo du lịch , nhất mạo từ trọng tâm thành phố đến các cù lao , mỗi một nơi chốn bạn đến là có một gạt bỏ người trải nghiệm khác nhau. Tại Bali , khách khứa du lịch có Đông lựa chọn cho chuyến du lịch của mình: du lịch biển , du lịch phật giáo , du lịch tâm linh… Ở Đà Nẵng , du lịch biển là lựa chọn độc nhất. Nói chộp lại , đối với khách khứa du lịch , chịu tác động hoặc ảnh hưởng rõ rệt về Đà Nẵng khó mà định ảnh cụ thể - Một thành phố to còn hình thành? hay là một nơi chốn du lịch hạng sang? Hãy lựa một hướng về và tập kết vào y , đây là đào lộn hột mà các nhà phát triển nên coi xét. Do vậy , nếu Đà Nẵng đếch có một chiến lược phát triển tập kết , thành phố này khó có khả năng đón những du khách trở lại lần sau.
Vậy nếu so sánh giữa Phú Quốc và Bali thì sao , đệ ông?
Xét về quang cảnh tự nhiên tự nhiên thì có khả năng gàn bằng , nhưng xét về hạ tầng cơ sở và chất lượng du lịch , Phú Quốc cần học hỏi thêm kinh nghiệm phát triển từ Bali. Tôi nhấn mạnh một lần nữa kiếm quan trọng của một chiến lược phát triển dài hạn và nhất quán. Ví như một nơi chốn du lịch đếch hoàn thiện về chất lượng cũng như hạ tầng cơ sở , nơi chốn này sẽ mau chóng bị lãng quên và bị thay thế bởi vì những nơi chốn khác mới mẻ và tiện ích hơn.
Như vậy là tiềm năng phát triển của du lịch đếch chỉ phụ thuộc vào quy mô dự án BĐS mà phụ thuộc vào cơ sở hè tầng?
Đúng nhưng chưa đủ! mục đích của du lịch là trải nghiệm. Đến TP. Hồ Chí Minh , tớ có khả năng ở lại đây mỗi câu có bốn ngày. Đến Đà Nẵng , tớ đếch biết làm chi cho hết khoảng thời gian thầy ngày. Xung quanh khu nghỉ dưỡng tại Đà Nẵng đếch có Đông hoạt động vui chơi giải trí. Thêm vào đó , bước ra khỏi một khu nghỉ dưỡng hạng sang , khách khứa du lịch đếch có Đông lựa chọn phù hợp với nhu cầu của họ. Không có cửa hàng mậu dịch bán lẻ nhân thể tích , đếch có shop thời trang đồ chính hiệu được sản xuất ở những hãng có tên tuổi lớn , xung quanh các khu nghỉ dưỡng hạng sang tại Đà Nẵng là những quán xá của người dân địa phương. Sự phối hợp này đếch tương thích và hoàn toàn lãng phí tiềm năng du lịch. Ở Bali , hạ tầng cơ sở hoàn thiện hơn , hoạt động du lịch đa dạng với vô vàn những lựa chọn cho khách khứa du lịch. Tôi có khả năng đến Bali bốn lần trong suốt mỗi câu có bốn mà hẵng có Đông những trải nghiệm mới. Nói về tiềm năng phát triển du lịch , đào lộn hột quan trọng nhất Ấy là cung cấp gạt bỏ người trải nghiệm ưa thích cho du khách , đào lộn hột này sẽ đeo họ con quay trở lại.
Ông đánh giá thế nào về mực độ quan tâm của các nhà đầu tư vào thị trường BĐS nghỉ dưỡng Việt Nam?
Việt Nam có tiềm năng to về phát triển du lịch nghỉ dưỡng , du lịch khách sạn. Tuy nhiên , đào lộn hột phần lớn các nhà đầu tư băn khoăn Ấy là khả năng hòa vốn liếng , thu lợi của dự án , giá đất. Khi coi xét đầu tư , nhà đầu tư bao giờ cũng chú ý đến hai tiêu chí: mực độ rủi ro của dự án đầu tư và môi trường kinh doanh. Tôi thấy có khá Đông quỹ đầu tư nước ngoài hiện coi xét khả năng đầu tư tại Việt Nam bởi vì họ thấy đặng tiềm năng , họ ngó vào đào lộn hột gì? Họ ngó vào tiềm năng tăng trưởng , tiềm năng phát triển của thị trường. Nếu như tiềm năng phát triển tăng , nhu cầu tăng , tỉ lệ hấp thu tăng , thời kì hoàn vốn liếng ngắn thì hẳn nhiên khả năng dự án đặng đầu tư sẽ rất cao. Tuy nhiên , có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn bây giờ Ấy là môi trường kinh doanh ở Việt Nam , bởi vì còn là thị trường mới đặng , lúc mới hình thành nên phần lớn chính sách , quy trình hẵng thường xuyên đặng thay đổi và chưa đeo tính thống nhất , rõ ràng và phân tích minh bạch như những gì các nhà đầu tư cầu mong. Hiện nay có khá Đông nhà đầu tư còn khai triển dự án , cụ thể như Rockefeller thoạt đầu tư 2 , 5 tỷ USD vào dự án tại Vũng Rô - Phú Yên , nhà tỷ phú Israel Igal Ahouvi với dự án Alma Resort tại Bãi Rồng – Cam Ranh trị giá 300 triệu USD cho thấy các nhà đầu tư hở thấy đặng tiềm năng phát triển và mạnh bạo đầu tư. Nếu như Việt Nam có khả năng giải quyết đặng những Sự tình còn tồn đọng như quy trình đăng ký kinh doanh , chất lượng cơ sở hè tầng… Việt Nam sẽ còn lôi cuốn Đông nhà đầu tư hơn nữa.
Xét trên giác độ ngành kinh doanh du lịch , nếu chính sách gấp thị thực đặng nới lỏng và chi phí xin thị thực đặng giảm thiểu , lượng khách khứa du lịch đến Việt Nam sẽ tăng gia chi dĩ. Ví dụ như Mộc Nhĩ Kỳ , lát mở mang danh sách các quốc gia miễn sao thị thực vào đất nước này , số lượng khách khứa du lịch Thêm lên ngoạn mục trong suốt mỗi câu có bốn đi hàng đầu. Trên giác độ chuye , tại Đông Nam Á , có bao lăm đất nước có tiềm năng du lịch như Việt Nam? Nhưng bao lăm khách khứa du lịch biết đến tiềm năng này? Tại Việt Nam có đa dạng lựa chọn về công cụ đi lại và chỗ ăn chỗ ở cho khách khứa du lịch đến đất nước này thường xuyên không? bây giờ mỗi ngày có thầy chuyến bay thẳng đến TP. Đà Nẵng , 360 đến 400 lượt khách khứa cho mỗi chuyến bay , Đà Nẵng rõ ràng có khả năng đón lượng khách khứa Đông hơn rất nhiều nếu giao thông điện cơ đặng tăng cường.
Liệu rằng còn có một làn sóng đầu tư mới lát bây giờ tại thị trường BĐS nghỉ dưỡng , khách sạn cửa lò của Việt Nam , ngoài các nhà đầu tư chuye luỵ Á , hở hiện ra thêm Đông nhà đầu tư đến từ Mỹ , Israel , Nga , đệ ông?
Là một nhà đầu tư có vốn liếng rỗi rãi , tớ có khả năng coi xét đầu tư tại Việt Nam , Singapore , Myanmar , Malaysia , Ấn Độ hay là Trung Quốc. Những quốc gia này đều là những điểm đến đầu tư của chuye luỵ Á. Tuy nhiên , lát tớ phân tách và so sánh môi trường đầu tư tại Việt Nam với môi trường đầu tư tại Indonesia thường xuyên Malaysia , tớ tuy rằng Việt Nam có Đông tiềm năng phát triển dài hạn hơn. Việt Nam chẳng thể so sánh đặng với Singapore thường xuyên Trung Quốc bởi vì những khác biệt rõ ràng về quá trình phát triển và quy mô đầu tư. Nhưng so với các quốc gia tại chuye Đông Nam Á , môi trường đầu tư tại Việt Nam hở đặng cải thiện , nâng cao tính cạnh tranh và trở thành quyến rũ với các nhà đầu tư hơn.
Nói chộp lại , Việt Nam có tiềm năng phát triển dài hạn , tuy nhiên , hẵng còn trong suốt giai đoạn kiếm đường phát triển. Môi trường đầu tư đếch chỉ bị ảnh hưởng bởi vì chính sách , hệ thống giao thông chính trị , kinh tế vĩ mô ổn định mà còn phụ thuộc vào tính phân tích minh bạch và nhận thức của từng thành phần nông dân dự khán vào môi trường đầu tư đó , liệu chừng họ có thiếu tri thức chuyên trị , thiếu thông báo trong suốt quá trình tìm hiểu và tiếp cận không. Đối gộ địa phương của họ liệu chừng hở đủ kinh nghiệm , tiềm lực và uy tín đặt hiệp tác thành công chưa? Nếu có thêm thông báo về môi trường và thể cách kinh doanh tại Việt Nam , các nhà đầu tư sẽ mạnh bạo hơn lát tiếp cận thị trường này. Một lát các nhà đầu tư bắt đầu phát động dự án , họ phải tự tín về quyết định đầu tư và tin tưởng tiềm năng lợi nhuận dự án đeo về đủ to đặt họ mạo hiểm đầu tư. Trong tương lai , hẳn nhiên Đông nhà đầu tư đến từ các châu lục khác sẽ coi xét thị trường Việt Nam. Nhưng lát này họ chính thức xâm nhập và đầu tư vào thị trường này thì Vẫn là Sự tình thì gian.
Ông đánh giá thế nào về loại hình đầu tư BĐS nghỉ dưỡng đặt bán?
Tôi đếch nghĩ đây sẽ là một xu hướng đầu tư trong suốt tương lai , đặc biệt là tại một thị trường mới đặng như Việt Nam. Hồ hết những chủ đầu tư bán dự án đều là những chủ đầu tư muốn rút vốn liếng lẹ và ngừng hoạt động trên thị trường. Tại hầu hết các thị trường luỵ Á , chỉ lát kinh doanh đếch có lãi , chủ đầu tư mới rao bán Chia của cải. Năm ngoái tại TP. Hồ Chí Minh , khoảng bốn đến mỗi câu có bốn BĐS khách sạn đặng chuyển dịch. Nhưng đây đếch phải là một xu hướng trên thị trường. Hình thức mua và cho mướn lại theo thời kì ( Timeshare ) cũng đếch phải là hình thức kinh doanh tốt tại Việt Nam. Hình thức kinh doanh này phụ thuộc phần lớn vào đặc thù của thị trường , nhu cầu đặc thù của khách khứa du lịch chuye đó. Hình thức kinh doanh này có khả năng thành công ở Florida hơn là ở Việt Nam. Thêm vào đó , mỗi văn hóa lại có một đặc thù riêng. Ví như ở Mỹ , Châu Âu cho mướn là trao lại hết thảy cho đại lý và người mướn quản lý. Nhưng ở Châu Á nhìn chung , tâm lý chủ nhà chẳng thể an tâm lát trao lại đồ đoàn cho người mướn sử dụng rặt bộ.
Còn kiếm quan trọng của các nhà quản lý đối với dự án nghỉ dưỡng , khách sạn tại Việt Nam thì như thế nào , đệ ông?
Tại một dự án to bởi vì một chủ đầu tư có uy tín xây dựng , gạt bỏ người có mặt của một đơn vị quản lý chuyên nghiệp sẽ nâng cao chất lượng của lao vụ cũng như khả năng sinh lời của dự án. Những đơn vị quản lý chuyên nghiệp có kinh nghiệm hơn 10 mỗi câu có bốn , 20 mỗi câu có bốn trong suốt quản lý BĐS nghỉ dưỡng , khách sạn – hẳn nhiên sẽ có thể cách làm việc hợp lý , công hiệu và kiệm ước chi phí.
Ông có khuyến nghị gì đặt Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư và lôi cuốn đầu tư BĐS khách sạn , nghỉ dưỡng thường xuyên không?
Nếu tớ có khả năng khuyến nghị , tớ đề xuất 3 đào lộn hột sau:
Một là , cần phổ cập và phân tích minh bạch chính sách cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đếch hiểu về luật pháp và chính sách đầu tư tại Việt Nam.
Thứ hai , về phương diện BĐS , các nhà đầu tư rất nghi ngại về giá trị đất. Giá đông quá cao cũng là một nhân tố gây thiệt hại cho Việt Nam trong suốt quá trình lôi cuốn các nhà đầu tư nước ngoài. Dù có kinh doanh vận hành tốt đến đâu thì cũng phải một thời kì rất dài mới có khả năng khấu hao được.
Thứ thầy , Việt Nam có Đông chính sách tương trợ , khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh , sinh sống tại Việt Nam nhưng hoàn cảnh và thủ tục đặt tiếp cận những tương trợ này , Đông nhà đầu tư nước ngoài đếch biết kiếm thông báo ở đâu. Khắc phục đặng những đào lộn hột căn bản này , Việt Nam sẽ cải thiện đặng môi trường đầu tư và trở thành một điểm đến đầu tư quyến rũ hơn.
khách sạn cửa lò mùa du lịch 2015.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời



Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 10:04 PM
Sử dụng mã nguồn vBulletin® Phiên bản 3.6.8
© 2007 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên DTNTHB.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.
Chợ thông tin giao dịch Vàng Việt Nam

Liên hệ   Chợ thông tin giao dịch Vàng Việt Nam         Lưu Trữ  


Footer
vBSkinworks Top